BÀN VỀ TÍNH DỤC (Sexuality)

Sexuality - Tính dục
Tính dục là tổng thể con người, bao gồm mọi khía cạnh đặc trưng của nam hay nữ và biến động suốt đời. Tính dục phản ánh tính cách con người, không phải chỉ là bản chất sinh dục. Vì là một biểu đạt tổng thể của nhân cách, tính dục liên quan tới yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội, tinh thần và văn hóa của đời sống.

Tính dục khác với tình dục, vốn chỉ về quan hệ tính giao đơn thuần giữa hai người. Hiểu rõ về "sexuality" rất quan trọng, vì nó liên quan đến rất nhiều thuật ngữ khác.
Tính dục bao gồm những yếu tố như:
- Giới tính sinh học: xác định thông qua cấu tạo cơ thể và những biểu hiện trên cơ thể.
-  Biểu hiện giới tính: xác định thông qua những đặc điểm giới tính mà họ thể hiện.
 -  Cảm nhận giới tính: xác định thông qua cảm nhận về giới tính của một người về chính bản thân họ.
-  Khuynh hướng tính dục: xác định thông qua cảm nhận, mong muốn về tình cảm, tình yêu, tình dục của một người hướng đến người khác.

1. Sex/Biological Sex - Giới tính sinh học
Xác định thông qua những đặc điểm sinh học của cơ thể như cấu tạo gene, nội tiết tố, bộ phận sinh dục chính, bộ phận sinh dục phụ, vân vân. Giới tính sinh học bao gồm nam giới, nữ giới, và những trường hợp khác.
Nam giới là người có đầy đủ những đặc điểm sinh học của nam (cấu trúc gene XY, nội tiết tố Testosterone, cấu tạo cơ thể có dương vật, tinh hoàn, vân vân) và nữ giới là người có đầy đủ những đặc điểm sinh học của nữ (cấu trúc gene XX, nội tiết tố Estrogen, cấu tạo cơ thể có âm đạo, tử cung, trứng, vân vân)
Có những trường hợp khác của giới tính sinh học do khiếm khuyết sinh học gây ra. Bốn khả năng của khiếm khuyết sinh học là:
·         Người có bộ phận sinh dục nam không rõ.
·         Người có bộ phận sinh dục nữ không rõ.
·         Người có cả bộ phận sinh dục nam và nữ.
·         Người không có cả bộ phận sinh dục nam hoặc nữ.
Giới tính sinh học vừa dễ vừa khó nhận biết, do các cơ quan này phần lớn là bộ phận cơ thể kín đáo và nhạy cảm, hoặc có khiếm khuyết ẩn sâu.
Bên cạnh đó, có những trường hợp khác do can thiệp của con người. Ba khả năng của việc can thiệp này là:
·         Người phẫu thuật chuyển bộ phận sinh dục nam thành nữ;
·         Người phẫu thuật chuyển bộ phận sinh dục nữ thành nam; và
·         Người phẫu thuật để có cả bộ phận sinh dục nam và nữ

2. Gender Presentation/Gender Role- Biểu hiện giới tính

Xác định thông qua những đặc điểm giới tính mà họ thể hiện ra bên ngoài như cách thức phục trang, cách thức ứng xử, tính cách, hành vi. Nói cách khác đó là "giới tính bên ngoài" của mỗi người.
·     Nam tính là những đặc điểm bên ngoài, tính cách được đa số người quan niệm thuộc về nam (dáng đi cứng, dáng ngồi vuông, khuôn mặt sắc cạnh xanh râu, nước da ngăm ngăm, ăn mặc lịch lãm hay phong trần, tránh để lộ cơ thể, ăn to nói lớn, tay chân đầu cổ không múa may điệu đà, làm những việc mà nam giới hay làm, vân vân).
·    Nữ tính là những đặc điểm bên ngoài, tính cách được đa số người quan niệm thuộc về nữ (dáng đi mềm mại, thướt tha, mặt nhỏ, da trắng, ăn mặc làm nổi lên những đường nét của cơ thể, giọng nói nhẹ nhàng thanh nhã, cử chỉ linh hoạt mềm mại, làm những việc mà nữ giới hay làm, vân vân).
Mỗi người đều có thể có nhiều hay ít những đặc điểm nam tính và nữ tính. Tùy mức độ hòa trộn cũng như nổi trội của từng đặc điểm mà một người có thể được đánh giá khác nhau. Sự biểu hiện cũng có thể thống nhất hay đứt quãng, chẳng hạn một người có biểu hiện trước mọi người hoàn toàn là nam giới, nhưng khi về nhà chỉ có một mình lại thích như hóa thân vào nữ giới: ăn mặc đồ phụ nữ, trang điểm…
Biểu hiện giới tính là đặc điểm dễ nhận biết nhất đối với người xung quanh, xuất phát từ tính chất của sự thể hiện ra bên ngoài và những khuôn mẫu, quan niệm sẵn có của xã hội. Biểu hiện giới tính còn có thể gọi là vai trò giới, bởi nó xuất phát từ đánh giá của xã hội về vị trí, sự cần thiết và thái độ, phản ứng dành cho một cá nhân về cung cách sống của họ. Xã hội mong muốn giới tính của người đó như thế nào, sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến biểu hiện giới tính của họ.

3. Gender/Gender Identity – Bản sắc giới


Xác định thông qua cảm nhận về giới tính của một người về chính bản thân họ. Nói cách khác đó là "giới tính bên trong" của mỗi người.
·  Người cảm nhận là nam là người mà trong suy nghĩ của họ, khi đặt ra câu hỏi “tôi là nam hay nữ”, câu trả lời sẽ là “nam”.
·  Người cảm nhận là nữ là người mà trong suy nghĩ của họ, khi đặt ra câu hỏi “tôi là nam hay nữ”, câu trả lời sẽ là “nữ”.
·  Những trường hợp khác, khi đặt ra câu hỏi “tôi là nam hay nữ”, câu trả lời có thể sẽ là “cả hai”, “chút này chút kia”, “tôi không biết”, hay thậm chí là “không ai cả”.
Sự cảm nhận có thể ở dạng minh thị (tỏ thái độ không hài lòng) hay mặc thị (không tỏ thái độ không hài lòng). Chẳng hạn, người cảm nhận là nam không nhất thiết phải là người giữ trong đầu ý nghĩ “mình là đàn ông”, mà chỉ đơn giản là chưa bao giờ có ý nghĩ mình là phụ nữ.
Cảm nhận giới tính không nhất thiết đồng nhất với giới tính sinh học hay biểu hiện giới tính. Một người có giới tính sinh học là nam giới, biểu hiện bên ngoài như nam giới, nhưng có thể cảm nhận mình là nữ giới. Tuy vậy, cảm nhận giới tính quan hệ chặt chẽ với giới tính sinh học và biểu hiện giới tính. Phải dựa trên yếu tố sinh học, biểu hiện giới tính hiện thời, thì một người mới có thể xác định được cảm nhận của mình.

Cảm nhận về giới tính cũng không nhất thiết đồng nhất với mong muốn về giới tính. Nói cách khác, “nam cảm nhận mình là nữ” không nhất thiết “mong muốn mình là nữ”. Tương tự, như nhiều người nam chuyển đổi giới tính thành nữ ở Thái Lan hay thái giám ngày xưa chẵng hạn, có thể “mong muốn, và đã trở thành phụ nữ” nhưng họ vẫn cảm nhận mình là nam, đơn giản là có thể do hoàn cảnh, công việc của họ tạo ra “mong muốn” đó mà thôi.


4. Sexual Orientation – Khuynh hướng tính dục


Là khái niệm để chỉ đối tượng nào mà những cảm nhận về tình cảm, tình yêu và tình dục của một người hướng tới. Nếu:
·    Một người hướng tình cảm, tình yêu, hay tình dục của mình đến với người khác bản sắc giới tính như mình, thì gọi là người có khuynh hướng tính dục dị giới. Hay còn gọi là người dị tính luyến ái.
·    Một người tình cảm, tình yêu, hay tình dục của mình đến với người có cùng bản sắc giới tính như mình, thì gọi là người có khuynh hướng tính dục đồng giới. Hay còn gọi là người đồng tính luyến ái.
·   Một người hướng tình cảm, tình yêu, hay tình dục của mình đến với cả bản sắc giới tính như mình và khác mình, thì gọi là người có khuynh hướng tính dục song giới. Hay còn gọi là người song tính luyến ái.
·      Và một số trường hợp khác.
Ở đâu đó, người ta có một định nghĩa ngắn gọn và dễ hiểu hơn, đại loại: “người đồng tính là người có quan hệ tình dục với người đồng giới”. Tuy nhiên, trong luận điểm trên có hai sai lầm cơ bản sau.
·   Thực tế thì tình dục không phải là tất cả. Việc có ham muốn tình dục với ai thuộc về hành vi tính dục, chứ không phải khuynh hướng tính dục. Một người, không có ham muốn tình dục với người đồng giới, vẫn có thể là người đồng tính. Ngược lại, một người có ham muốn tình dục với người đồng giới thì chưa chắc là người đồng tính. Khuynh hướng tính dục đề cập đến cảm xúc và sự cảm nhận về chính mình, không phải những gì họ biểu hiện.
·     “Người đồng giới” là một người “cùng giới tính”? Như đã nói ở phần “bản sắc giới tính”, nếu nói “cùng giới tính” thì có đến 3 khả năng: có giới tính sinh học giống nhau, có biểu hiện giới tính giống nhau và có cảm nhận giới tính giống nhau. Không thể chỉ căn cứ vào một trong ba yếu tố trên mà kết luận về khuynh hướng tính dục được.
Trường hợp như nghệ sĩ Chinh Nhân yêu ca sĩ chuyển giới Cát Tuyền, có thể gọi ai là người đồng tính? Xét về bản sắc giới tính, Cát Tuyền là nữ (kể cả khi chưa phẫu thuật), Chinh Nhân là nam. Từ đó ta kết luận, cả hai đều là người dị tính luyến ái. Những người nam transexual (bản sắc giới tính là nữ), thường không yêu những người transexual như mình (vì họ chỉ hướng đến những người có bản sắc giới tính là nam), vì vậy không thể gọi họ là người đồng tính. 

 Quan hệ giữa 4 yếu tố

Giới tính sinh học, biểu hiện giới tính và cảm nhận giới tính lần lượt dựa trên các yếu tố sinh lý, xã hội và tâm lý. Có thể kết hợp những đặc điểm của từng yếu tố để tạo ra một bản sắc giới tính khác nhau. Ví dụ:
·      Người có giới tính sinh học là nam giới. Biểu hiện bên ngoài như nam giới. Cảm nhận mình là nam giới. Yêu một người nam giới và lập gia đình với một phụ nữ.
·      Người có giới tính sinh học là nữ giới. Biểu hiện bên ngoài như nam giới. Cảm nhận mình là vừa là nam vừa là nữ giới. Yêu một người nữ giới và quan hệ với phụ nữ.
·     Người có giới tính sinh học là nam giới. Biểu hiện bên ngoài như nữ giới. Cảm nhận mình không phải là nam giới. Yêu nam giới và không có quan hệ tình dục.
Có thể nôm na xác định giới tính sinh học, biểu hiện giới và bản sắc giới, khuynh hướng tính dục và bằng các câu hỏi “tôi  cơ thể nam hay nữ”, “tôi cư xử như nam hay nữ” và “tôi  nam hay nữ”, “ai hấp dẫn tôi.
Trên thực tế, biểu hiện giới tính của một người là căn cứ hay được dùng nhất để đánh giá về bản sắc giới tính của họ. Bởi nó là đặc điểm dễ nhận thấy nhất đối với những người xung quanh. Nhưng sai lầm hơn cả là dựa vào thể hiện giới tính để đánh giá về khuynh hướng tính dục của một người. 

Post Tags:

Tư vấn đồng tính: 1900 6233

Lĩnh vực tham vấn: Tư vấn đồng tính, tình yêu, hôn nhân, gia đình, sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, giới tính, gỡ rối các vấn đề khó xử trong quan hệ gia đình, bè bạn, tư vấn hướng nghiệp và kỹ năng sống.