Hôn nhân cùng giới khác gì với chung sống có đăng ký?

Hôn nhân cùng giới
Hôn nhân cùng giới
1.   Tại những quốc gia hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới, thật ra không có cái gọi là “luật hôn nhân cùng giới.” Mà pháp luật chỉ định nghĩa lại khái niệm hôn nhân, bãi bỏ điều kiện về giới tính của hai bên phối ngẫu (phối ngẫu: vợ hoặc chồng) dẫn đến việc ban hành một luật hôn nhân thống nhất không phân biệt giới tính, áp dụng cho tất cả mọi người. Những khái niệm “vợ/chồng” được thay bằng thuật ngữ không mang tính phân biệt giới tính như “ partner” “spouse” (người chung thân, phối ngẫu). Các cặp cùng giới hay khác giới đều được pháp luật nhìn nhận và đối xử như nhau.

2.    Còn tại những quốc gia hợp pháp hóa “chung sống có đăng ký” giữa hai người cùng giới, so với hôn nhân giữa hai người khác giới, trong hầu hết các mặt, sự khác nhau chỉ nằm ở tên gọi. Luật pháp nhiều nơi quy định các quyền, nghĩa vụ dành cho “chung sống có đăng ký” giữa hai người cùng giới là hoàn toàn giống với quyền, nghĩa vụ dành cho “hôn nhân” giữa hai người khác giới. Việc có tên gọi khác nhau với nội hàm như nhau này xuất phát từ một số nguyên nhân:
-      Các nhà lập pháp không muốn thay đổi định nghĩa khái niệm hôn nhân là giữa một nam và một nữ. Do vậy pháp luật sản sinh ra một tên gọi khác, một hình thức dành riêng cho các cặp cùng giới.

-       Các nhà lập pháp muốn có một bước đệm, một khoảng thời gian chuyển tiếp để xã hội có thể thay đổi sự suy nghĩ cố hữu về hôn nhân là giữa nam và nữ.
Thực tế khi hai người cùng giới thiết lập một mối quan hệ pháp lý bằng hình thức chung sống có đăng ký, họ có hầu hết các quyền và nghĩa vụ như trong hôn nhân. Chẳng hạn, Bộ luật Kết đôi Dân sự 2004 của Vương quốc Anh quy định những quyền và nghĩa vụ của hai cặp cùng giới trong Kết đôi Dân sự là “hoàn toàn giống” với hôn nhân của của cặp khác giới. Bộ luật Gia đình của bang California tại đoạn 297.5(a) quy định rằng “các bên trong quan hệ gia đình có đăng ký có đầy đủ các quyền, sự bảo hộ, quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ và bổn phận giống như các quy định dưới luật này.”
Ở một số nơi, các cặp “chung sống có đăng ký” không được hưởng một số quyền nhất định như làm lễ tại nhà thờ, bảo lãnh di trú, cộng thuế, quyền lợi lao động phát sinh từ phối ngẫu (nghỉ sinh, bảo hiểm gia đình…), lợi ích liên quan tới cựu binh, vân vân…

3. Hình thức chung sống có đăng ký là mô hình của kỹ thuật lập pháp “tách biệt nhưng bình đẳng” (“seperate but equal”), với ý tưởng rằng sẽ không đụng chạm đến những chế định truyền thống, nhạy cảm, mà vẫn tạo ra được sự công bằng cho tất cả mọi người một cách hợp pháp.
Ở những quốc gia này, điều mà pháp luật cố gắng hướng tới là thống nhất lại thành một chế định hôn nhân duy nhất dành cho tất cả mọi người, gọi là “hôn nhân bình đẳng” hay “hôn nhân không phân biệt giới tính”. Quan điểm của những người ủng hộ hôn nhân không phân biệt giới tính là mặc dù quyền lợi của “chung sống có đăng ký” có thể không khác “hôn nhân,” nhưng khi nào vẫn còn sự phân biệt, nghĩa là vẫn chưa có được công bằng thật sự.
Đó cũng là lý do những nước hiện tại đã hoàn toàn hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới, đều đã từng trải qua một khoảng thời gian áp dụng hình thức chung sống có đăng ký. Chẳng hạn như Đan Mạch là nước đầu tiên trên thế giới áp dụng hình thức chung sống có đăng ký (năm 1989) nhưng đã đợi tới 22 năm để thống nhất lại thành một hình thức hôn nhân cho tất cả mọi người (năm 2012).
Tư vấn đồng tính: 1900 6233

Lĩnh vực tham vấn: Tư vấn đồng tính, tình yêu, hôn nhân, gia đình, sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, giới tính, gỡ rối các vấn đề khó xử trong quan hệ gia đình, bè bạn, tư vấn hướng nghiệp và kỹ năng sống.