Người LGBT ở Việt Nam bao gồm những người đồng tính, lưỡng giới và chuyển đổi giới tính ở Việt Nam. LGBT là từ viết tắt của cụm từ lesbian, gay, bisexual, và transgender/transsexual people (những người đồng tính nữ, người đồng tính nam, lưỡng giới, hoán tính/chuyển đổi giới tính) trong tiếng Anh.
Mặc dù hiếm có ghi nhận, đồng tính luyến ái trong thời kỳ cận đại của lịch sử Việt Nam từng được nhắc tới trong một số tài liệu. Hiện nay, tuy không có luật cấm quan hệ tình dục đồng tính, nhưng luật hôn nhân và gia đình cấm hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Năm 2012, Bộ Tư pháp cho rằng "xét về đảm bảo quyền tự do cá nhân thì việc kết hôn của những người cùng giới tính cần được công nhận", nhưng cũng nói thêm "Xét về văn hóa tập quán của gia đình Việt Nam, tính nhạy cảm xã hội của vấn đề, hậu quả xã hội của quy định pháp luật chưa được dự báo hết; thì ở thời điểm này việc thừa nhận người cùng giới tính có quyền kết hôn với nhau ở Việt Nam là còn quá sớm"
Hiện nay chưa có cuộc điều tra chính thức về số người đồng tính tại Việt Nam, các ước tính khác nhau có chênh lệch rất lớn. Theo ước tính của bác sĩ Trần Bồng Sơn (nhà nghiên cứu về giới tính học nổi tiếng nhất tại Việt Nam, số đồng tính nam ước tính là khoảng 70.000 người (chiếm 0,09% dân số). Một nghiên cứu khác do tổ chức phi chính phủ CARE thực hiện ước tính Việt Nam có khoảng 50-125 ngàn người đồng tính, chiếm khoảng 0,06-0,15% dân số.
Chưa có nhiều nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của đồng tính luyến ái ở Việt Nam. Đại bộ phận người dân còn kỳ thị cũng như có những suy nghĩ sai lệch về người đồng tính. Điều này có thể tác động xấu đến không chỉ những người đồng tính mà còn đến xã hội nói chung. Tuy đồng tính luyến ái bắt đầu được đề cập trong một số tác phẩm nghệ thuật và một số nhân vật lên tiếng kêu gọi xã hội có thái độ tích cực đối với người đồng tính cũng như một số hoạt động dành cho giới này được tổ chức, đồng tính luyến ái ở Việt Nam chưa thực sự được quan tâm một cách đầy đủ và cần thiết.Nghiên cứu của Viện iSEE về sự kỳ thị của người đồng tính nam tại Việt Nam cho thấy:
1,5% cho biết đã bị đuổi học khi bị phát hiện là người đồng tính.
4,1% bị kỳ thị về vấn đề nhà ở.
4,5% cho biết từng bị tấn công và bị đánh đập vì là người đồng tính.
15,1% cho biết bị gia đình chửi mắng vì là người đồng tính.
Theo tiến sĩ Marie-Eve Blanc, một giảng viên ở Đại học Montreal, Québec (Canada), người từng nghiên cứu về nguy cơ sức khỏe của nhóm hành vi nam có quan hệ tình dục với nam ở Việt Nam, đồng tính luyến ái chưa được quan tâm nhiều ở Việt Nam là do tư tưởng Khổng giáo. Theo Khổng giáo, người đàn ông nên lập gia đình và sinh con để nối dõi tông đường. Người đồng tính trẻ thường bị áp lực bởi gia đình là phải lập gia đình. Cha mẹ thường cảm thấy an tâm khi con trai họ đã lập gia đình. Nhưng sau khi lập gia đình, đồng tính luyến ái trở thành một bí mật và là cuộc sống riêng tư của mỗi cá nhân.
Nhiều người cho rằng đồng tính luyến ái là do ảnh hưởng lối sống của phương Tây. Tuy nhiên theo tiến sĩ Blanc, điều này không đúng. Ngoài ra, sự du nhập của đạo Cơ đốc càng làm cho thành kiến đối với người đồng tính càng nặng nề hơn. Hơn nữa, hầu như các nước Đông Nam Á đều có thành kiến nặng nề với người đồng tính trừ Thái Lan, đất nước không bị đô hộ bởi phương Tây trong quá khứ.
Nhiều người coi đồng tính luyến ái là không bình thường thậm chí là bệnh hoạn đặc biệt là ở nông thôn. Hành vi âu yếm của hai người cùng giới có thể làm cho nhiều người cảm thấy ghê tởm. Nhiều bậc cha mẹ cảm thấy bị tổn thương, kinh ngạc, giận dữ, mắc cỡ hoặc hoang mang khi biết con mình đồng tính. Một số người tìm cách thay đổi con mình, trong khi một số người khác thì không quan tâm đến con nữa.
Tuy nhiên, một số ít người bắt đầu cho rằng đồng tính luyến ái không phải là bệnh. Thái độ của họ đối với người đồng tính có xu hướng cởi mở hơn. Một số nhà tư vấn tâm lý cũng khuyên mọi người nên có thái độ bình tĩnh, tìm cách thấu hiểu và hỗ trợ khi biết người thân hoặc bạn bè là người đồng tính đặc biệt là cha mẹ khi biết sự thật về con mình. Cha mẹ cũng cần thời gian để dần dần chấp nhận việc này.
Trong cuộc thăm dò năm 2007 của Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh với 1 nhóm học sinh cấp 3, với câu hỏi "Người đồng tính luyến ái có xấu hay không?", hơn 80% học sinh trả lời là "không". Các học sinh này giải thích rằng vì đó là quyền tự do của mỗi người hoặc việc là người đồng tính không phải lỗi do bản thân người đó. Khi phát hiện trong lớp có bạn đồng tính, 72% học sinh khẳng định vẫn giữ mối quan hệ bình thường với bạn, kèm theo động viên (34%) và giữ kín bí mật cho bạn (35%), 2% học cảm thấy khinh bỉ và 13% thấy sợ.
Vài chuyên gia tâm lý cho rằng giáo viên cần tôn trọng sự riêng tư của học sinh đồng tính và nên động viên họ để họ không tự đánh giá thấp bản thân, còn cha mẹ của những học sinh này cũng cần được cung cấp kiến thức về vấn đề này để tạo mối quan hệ gần gũi, thông cảm để họ không cảm thấy bị cô lập.
Phần lớn người dân chưa hiểu biết nhiều và đúng về đồng tính luyến ái. Nhiều người không phân biệt được những khái niệm người đồng tính luyến ái, người hoán tính/chuyển đổi giới tính, người lưỡng tính mặc dù đây là những khái niệm khác nhau. Hơn nữa, đa số cho rằng đàn ông nữ tính hoặc phụ nữ nam tính là những người đồng tính. Có bài báo chỉ ra việc hiểu sai của nhiều người và giải thích rõ ràng sự khác biệt của ba khái niệm này. Một bài báo nêu ra rằng những người đồng tính nam hiện nay thuộc ba nhóm chủ yếu: 70% có bề ngoài giống như những người đàn ông bình thường, khoảng 10% người ăn mặc, trang sức, tác phong như phụ nữ và khoảng 20% thuộc nhóm nằm giữa hai nhóm này. Bên cạnh đó, quan niệm cho rằng ngày nay càng có nhiều người đồng tính là do đua đòi cũng khá phổ biến. Tuy vậy, một bác sĩ cho biết ngày nay lượng người đồng tính dám thể hiện mình nhiều hơn không phải vì họ tăng lên mà chỉ vì cái nhìn của xã hội đã dần thông thoáng.
Một số vấn đề vi phạm pháp luật liên quan tới người đồng tính hay được đăng trên các báo trong khi đó những mặt tích cực chưa được biết tới vì nhiều lý do. Nhiều bài báo cho rằng tội phạm đồng tính đang gia tăng. Vài người lợi dụng mối quan hệ không công khai, để giết bạn tình là người đồng tính và cướp tài sản. Vài tờ báo đăng về hiện tượng mại dâm nam trong đó người mua dâm có thể là những phụ nữ trung niên hoặc người đồng tính nam. Vài vụ đã bị công an phát hiện. Những tin tức này có thể làm cho người dân đánh giá người đồng tính chỉ dựa trên một bộ phận trong cộng đồng này. Để có cái nhìn chính xác về các mặt pháp luật cần phải có những thống kê và nghiên cứu tỉ lệ phạm tội của người đồng tính và của người không phải là đồng tính cũng như những yếu tố đặc thù liên quan.
Điều tra quốc gia về "Quan điểm xã hội với hôn nhân cùng giới" được Viện Xã hội học (Viện Hàn lâm Khoa học - Xã hội Việt Nam) và Viện Nghiên cứu xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) công bố ngày 26/3/2014, cuộc điều tra được thực hiện tại 68 xã, phường thuộc 8 tỉnh, thành phố tại Việt Nam gồm: Hà Nội, Quảng Ninh, Nghệ An, Đà Nẵng, Đắk Lắk, TP.HCM, An Giang, Sóc Trăng với sự tham gia của 5.300 người dân.:
90% người dân Việt Nam biết về đồng tính và 62% biết về việc sống chung như vợ chồng giữa hai người cùng giới tính.
30% người dân có quen ai đó là người đồng tính (họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm...).
Khi được hỏi về một số quyền cụ thể được đề cập đến trong Luật Hôn nhân – Gia đình, có 56% người dân cho rằng cặp đôi cùng giới nên có quyền cùng nhận con nuôi và nuôi con, 51% ủng hộ quyền sở hữu tài sản chung, 47% ủng hộ quyền thừa kế tài sản.
Đa số người dân cho rằng việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới không ảnh hưởng đến gia đình (72,7%) hay cá nhân họ (63,2%).
Về việc công nhận quyền sống chung giữa những người cùng giới tính, số người ủng hộ là 41,2% (hình thức sống chung theo dạng "kết hợp dân sự" hoặc "đăng ký sống chung như vợ chồng) và 33,7% ủng hộ việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới.
Social Links: